Quản lý chất lượng giáo dục vươn tầm quốc tế với thành tích về giáo dục phổ thông, giáo dục mũi nhọn và giáo dục đại học
- Thứ bảy - 06/09/2025 06:57
- In ra
- Đóng cửa sổ này

Quản lý chất lượng giáo dục vươn tầm quốc tế với thành tích về giáo dục phổ thông, giáo dục mũi nhọn và giáo dục đại học

GS.TS Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng.
Năm 2025, kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành Giáo dục với rất nhiều thành tích đáng ghi nhận; đối với lĩnh vực quản lý chất lượng tham mưu cho Bộ trưởng và ngành, chúng ta phải kể đến: Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) năm 2025 – kỳ thi đầu tiên theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 – được tổ chức chuyên nghiệp, an toàn, nghiêm túc, khách quan. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được khẳng định qua các kỳ thi quốc gia, quốc tế, khu vực. Việt Nam đã cam kết và tiếp tục tham gia nhiều chương trình đánh giá diện rộng do các Tổ chức quốc tế có uy tín như OECD, SEAMEO (ASEAN)… tổ chức và luôn đạt thứ hạng cao. Đối với xếp hạng đại học, dù ở mức độ tự nguyện, bước đầu đã có gần 20 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam được xếp hạng tại các bảng xếp hạng uy tín quốc tế.
Với vai trò Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (QLCL), Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) trực tiếp tham mưu và triển khai thực hiện những nhiệm vụ do Bộ trưởng giao và kết quả đã đạt được những thành tích được ngành giáo dục và cả xã hội ghi nhận, Cục trưởng, GS.TS Huỳnh Văn Chương đã có những chia sẻ về những vấn đề này.
Thành tích các Olympic khu vực và quốc tế năm 2025 đạt cao nhất trong các năm gần đây – góp phần đặc biệt quan trọng trong giáo dục mũi nhọn của toàn ngành bên cạnh giáo dục đại trà; nâng cao vị thế giáo dục nước ta trên trường quốc tế; chắc hẳn nhiệm vụ này đòi hỏi tập thể Cục QLCL được Bộ trưởng giao nhiệm vụ phải dành nhiều công sức và cũng không ít áp lực; Ông đánh giá thế nào về kết quả này và Cục trưởng có định hướng gì về nhiệm vụ này trong thời gian tới?
GS.TS Huỳnh Văn Chương: Năm 2025, Việt Nam có 07 đoàn học sinh tham dự các Olympic khu vực và quốc tế với 37/37 lượt thí sinh tham dự đều đoạt Huy chương, trong đó có 13 huy chương Vàng, 16 Huy chương Bạc và 08 Huy chương Đồng, tất cả các đội tuyển đều nằm nằm trong Top 10 quốc gia dẫn đầu tính theo số lượng Huy chương Vàng; đội tuyển nào tham dự cũng đoạt Huy chương Vàng. so với năm 2024 (12 Huy chương Vàng, 15 Huy chương Bạc, 10 Huy chương Đồng và 01 Bằng khen) tăng 01 Huy chương Vàng so với năm 2025. Đây là thành tích đã được cả xã hội ghi nhận và rất đáng tự hào. Chúng tôi rất cảm phục các học sinh, các thầy cô giáo đã nỗ lực hết sức để đạt được thành tích này. Với chính sách đúng đắn và chiến lược phù hợp của Bộ GDĐT, trong nhiều năm qua và thời gian tới, Cục Quản lý chất lượng luôn tham mưu, triển khai thực hiện, đồng hành và sẽ tạo sân chơi khoa học mũi nhọn bổ ích, công bằng cho tất cả các em học sinh trên toàn quốc có đam mê khoa học được cơ hội để phát huy năng lực, sở trường. Đây là vinh quang của cá nhân các em, của cá nhân các thầy cô nhưng cũng là vinh quang của toàn ngành giáo dục và của cả đất nước. Sắp đến việc thi chọn học sinh giỏi tiếp tục được điều chỉnh theo hướng tạo cơ hội cho nhiều em học sinh được tham gia không kể trường chuyên hay trường không chuyên, nội dung thi dành phần nhiều bám sát theo chương trình giáo dục phổ thông hiện hành.
Nói về kết quả PISA, nhiều chuyên gia giáo dục vẫn bất ngờ khi kết quả của Việt Nam luôn ở mức cao hơn hoặc tương đương trung bình của các nước OECD. Như ở chu kỳ 2022, Việt Nam xếp hạng 34/81 quốc gia về điểm trung bình cả ba lĩnh vực, đứng thứ 2 ASEAN, chỉ sau Singapore (Singapore xếp hạng 1/81). Khi so sánh trên chỉ số điều kiện kinh tế - xã hội, học sinh Việt Nam thuộc nhóm đạt điểm Toán cao nhất, mặc dù chi tiêu cho mỗi học sinh của Việt Nam từ 6 đến 15 tuổi chỉ khoảng 13.800 USD trong khi các quốc gia/nền kinh tế OECD có chi tiêu ở mức 75.000 USD). Để có được bước đột phá này, theo ông, đâu là nguyên nhân chính để học sinh Việt Nam đạt được thành tích nổi bật trên?
GS.TS Huỳnh Văn Chương: Như chúng ta đã biết, thời gian qua, Cục Quản lý chất lượng là đơn vị đầu mối tham mưu và chủ trì tổ chức thực hiện cho học sinh trên toàn quốc tham gia nhiều chương trình đánh giá diện rộng do các Tổ chức quốc tế có uy tín như OECD, SEAMEO mà Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cam kết tham gia để hội nhập và chúng ta đã đạt thành tích khá cao. Kết quả của PISA 2022 là một ví dụ. Đây là một trong những điểm sáng của Việt Nam trong mắt cộng đồng quốc tế về hiệu quả giáo dục so với nguồn lực chúng ta bỏ ra.
Bên cạnh PISA, đối với SEA-PLM cho cấp tiểu học, Việt Nam tham gia lần đầu tiên vào năm 2019 và đã đạt được thành tích xuất sắc, dẫn đầu cả 3 lĩnh vực Đọc hiểu, Viết và Toán trong số 6 quốc gia tham gia trong khối ASEAN. Năm 2024, Việt Nam tiếp tục tham gia và kết quả sơ bộ cho thấy học sinh Việt Nam tiếp tục duy trì vị thế dẫn đầu ở cả 3 lĩnh vực và sẽ công bố thời gian đến. Chúng tôi cũng đang thực hiện chương trình đánh giá diện rộng lớp 5, lớp 9, lớp 11 quốc tế về Dạy và Học (TALIS) do OECD tổ chức. Để có được thành tích này, chúng tôi trân trọng sự nỗ lực của các thầy cô giáo và các em học sinh; đồng thời chúng tôi nhận thức được rằng Cục Quản lý chất lượng là cơ quan đầu mối do Bộ trưởng giao cần làm và làm tốt hơn nữa việc tập huấn cho các thầy cô giáo tiếp cận và thực hành phương pháp đánh giá theo bộ đánh giá của khu vực và thế giới; hướng dẫn học sinh Việt Nam thực hành các bài tập đánh giá năng lực để khơi gợi trí thông minh và phát huy cao nhất năng lực sáng tạo trong từng học sinh.
Việc triển khai các chương trình đánh giá diện rộng sẽ cung cấp các thông tin quan trọng về việc dạy, học và các điều kiện liên quan của giáo dục phổ thông, từ đó sẽ có khuyến nghị các chính sách về dạy, học, kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và hướng đến năng lực học sinh. Bên cạnh đó, tôi cũng muốn khẳng định rằng, kết quả của đánh giá diện rộng cho thấy Việt Nam sớm đạt cam kết Mục tiêu phát triển bền vững số 4 – SDG4 “Đảm bảo nền giáo dục chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.” và đóng góp thông tin quan trọng để Việt Nam hoàn thành chương trình đánh giá năng lực học sinh.
Một trong những vấn đề được toàn ngành và xã hội quan tâm là đánh giá, xếp hạng đại học. Từ những gương mặt đầu tiên vào những năm 2018 là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; cho đến nay đã có gần 20 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được xếp hạng tại các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Đây là con số ấn tượng trong bối cảnh giáo dục đại học hiện nay, ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về vấn đề này?
GS.TS Huỳnh Văn Chương: Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam đã và đang tham gia theo hướng tự nguyện và được công nhận xếp hạng trên 02 Bảng xếp hạng uy tín thế giới là QS World Ranking và THE (Times High Education) World University Rankings. Cụ thể, 09 cơ sở đã được xếp hạng theo bảng xếp hạng THE World University Rankings, trong đó có Đại học Kinh tế TP.HCM là đơn vị lần đầu tiên tham dự đã có thứ hạng cao (Top 501 – 600) thế giới năm 2025.
Đối với xếp hạng theo ngành học, trong bảng xếp hạng QS, 09 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đã được xếp hạng ở 25 ngành học, trong đó có 03 cơ sở giáo dục đại học có các ngành được xếp hạng cao. Cụ thể: Ngành Kỹ thuật dầu khí của Đại học Quốc gia TP HCM; ngành Khách sạn của Đại học Duy Tân và ngành Nghệ thuật trình diễn của Đại học Văn Lang là những ngành học được xếp hạng trong top 100 thế giới. Các kết quả nêu trên mặc dù rất đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn khiêm tốn so với kết quả trong khu vực và thế giới. Có 17 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam được xếp hạng trong bảng xếp hạng QS World Ranking, trong đó có những trường có thứ hạng cao (trong Top 200 thế giới) như Đại học Duy Tân; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Trường Đại học Tôn Đức Thắng; Trường Đại học Nguyễn Tất Thành.
Quan điểm của Bộ GDĐT coi việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học một cách thực chất là ưu tiên hàng đầu, học thật, thi thật, chất lượng thật; việc tham gia các bảng xếp hạng quốc tế là cần thiết nhưng hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện của các cơ sở giáo dục và các thông tin cung cấp để xếp hạng phải đúng, đủ, kịp thời và phù hợp với kết quả kiểm định chất lượng.
Chúng ta đã có Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; cùng với nỗ lực tự cải tiến của các cơ sở giáo dục đại học dưới sự hỗ trợ, kiến tạo và tạo điều kiện của ngành, của Bộ GDĐT, tôi cho rằng, việc nâng cao chất lượng một cách bền vững và cải thiện thứ hạng của các trường đại học Việt Nam trên các bảng xếp hạng quốc tế sẽ trở thành hiện thực trong tương lai không xa mà Nghị quyết số 71-NQ/TW đã đề ra.
Xin trân trọng cảm ơn Cục trưởng!
Kết quả Olympic khu vực và quốc tế năm 2025
STT | Đội tuyển Olympic | SL thí sinh | Thành tích | ||
HC Vàng | HC Bạc | HC Đồng | |||
1 | Olympic Vật lí Châu Á (trực tiếp tại Kingdom of Saudi Arabia) | 8 | 3 | 3 | 2 |
2 | Olympic Tin học Châu Á Thái Bình Dương (trực tuyến Uzbekistan) | 6 | 1 | 2 | 3 |
3 | Olympic Hóa học quốc tế (trực tiếp tại United Arab Emirates) | 4 | 4 | ||
4 | Olympic Toán học quốc tế (trực tiếp tại Australia) | 6 | 2 | 3 | 1 |
5 | Olympic Vật lí quốc tế (trực tiếp tại France) | 5 | 1 | 4 | |
6 | Olympic Sinh học quốc tế (trực tiếp tại Philippines) | 4 | 1 | 2 | 1 |
7 | Olympic Tin học học quốc tế (trực tiếp tại Bolivia) | 4 | 1 | 2 | 1 |
Tổng | 37 | 13 | 16 | 8 |
Bảng kết quả thi Olympic khu vực và quốc tế 2020-2025
Năm | Số lượt thí sinh dự thi | Huy chương | Bằng khen | Tổng số giải | ||
Vàng | Bạc | Đồng | ||||
2020 | 24 | 9 | 8 | 5 | 2 | 24 |
2021 | 37 | 12 | 13 | 10 | 2 | 37 |
2022 | 38 | 13 | 12 | 8 | 5 | 38 |
2023 | 36 | 8 | 12 | 12 | 4 | 36 |
2024 | 38 | 12 | 15 | 10 | 1 | 38 |
2025 | 37 | 13 | 16 | 8 | 37 | |
Năm 2025 số lượng Huy chương tăng so với 2024 |
1 | 1 |
Cục Quản lý chất lượng.