Sơ kết Chương trình phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học
- Thứ ba - 07/10/2025 18:33
- In ra
- Đóng cửa sổ này

Hội nghị được tổ chức trực tuyến với khoảng 2 400 đại biểu tham dự
Sáng 7/10, tại Hà Nội, Bộ GDĐT tổ chức hội nghị sơ kết thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 – 2030”. Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chủ trì hội nghị.

Hội nghị được tổ chức trực tuyến với khoảng 2.400 đại biểu tham dự
Hội nghị diễn ra trực tuyến với khoảng 2.400 đại biểu tại hơn 400 điểm cầu, gồm lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ GDĐT, tổ chức quốc tế, chuyên gia, báo cáo viên, cơ sở giáo dục đại học và trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục.
Chuyển biến rõ nét trong bảo đảm chất lượng giáo dục đại học
Cục trưởng Cục Quản lí chất lượng Huỳnh Văn Chương cho biết, sau gần ba năm triển khai Quyết định 78/QĐ-TTg, hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã có nhiều chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động.
Khảo sát tại 177 cơ sở giáo dục đại học cho thấy 170 cơ sở (96,3%) đã thành lập đơn vị chuyên trách bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu quan trọng của Quyết định 78, tạo nền tảng xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong (IQA) – trụ cột của quản trị đại học hiện đại theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW.

Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng Huỳnh Văn Chương báo cáo tại hội nghị
Hiện có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định, gồm 1.941 chương trình theo tiêu chuẩn trong nước và 696 chương trình theo tiêu chuẩn quốc tế, đạt 52,1% tổng số 5.007 lượt ngành đào tạo – vượt xa mục tiêu trung hạn (35%, trong đó 10% đạt chuẩn quốc tế). Đây là cơ sở quan trọng để triển khai Nghị quyết 281/NQ-CP về phân tầng và xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
Tất cả các tổ chức kiểm định đến hạn đều đã được đánh giá định kỳ theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT và trên 60% đã tham gia các mạng lưới bảo đảm chất lượng quốc tế hoặc hợp tác song phương, thể hiện bước tiến rõ nét trong hội nhập quốc tế.

Đại biểu dự hội nghị
Tuy nhiên, theo ông Chương, vẫn còn những hạn chế: ở một số nơi, chưa gắn bảo đảm chất lượng với cải tiến chương trình, quản trị nhà trường; văn hóa chất lượng chưa lan tỏa sâu rộng; nhiều cơ sở vẫn coi kiểm định là thủ tục hành chính hơn là công cụ quản trị.
Nhấn mạnh việc nâng cao hiệu quả bảo đảm và kiểm định chất lượng là điều kiện tiên quyết để đổi mới mô hình quản trị, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng đề xuất phân loại cơ sở theo mức độ chất lượng để có chính sách phù hợp; xây dựng Trung tâm phân tích dữ liệu bảo đảm chất lượng quốc gia kết nối với HEMIS, SAHEP để hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu; rà soát pháp luật để gắn yêu cầu bảo đảm chất lượng với mở ngành, đầu tư, xếp hạng, tự chủ; thí điểm kiểm định theo nhóm ngành để chuẩn hóa và tiết kiệm chi phí.

Phó Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng Phạm Quốc Khánh trao đổi tại hội nghị
Với các trường, nhóm chưa kiểm định cần sớm xây dựng quy trình tự đánh giá; nhóm đã kiểm định cần số hóa hệ thống chất lượng và sử dụng dashboard theo dõi cải tiến; nhóm mạnh nên tham gia kiểm định quốc tế và xếp hạng học thuật. Các tổ chức kiểm định cần tái cấu trúc theo hướng độc lập, minh bạch, chuyên nghiệp, hướng tới năm 2030 có 50% đạt công nhận lẫn nhau (MRA) ở cấp khu vực hoặc quốc tế.
Nâng cao chất lượng – nền tảng để cải thiện thứ hạng
Tại hội nghị, PGS.TS Nghiêm Xuân Huy (Viện Đào tạo số và Khảo thí – Đại học Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh: xếp hạng là công cụ khách quan giúp các trường đối sánh, nhận diện điểm mạnh – yếu và cải tiến chất lượng. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 có 8 trường vào top 200 châu Á, nhưng hiện còn khoảng cách lớn. Các yếu tố quyết định thứ hạng gồm uy tín học thuật, uy tín tuyển dụng, đội ngũ tiến sĩ, quốc tế hóa và chất lượng nghiên cứu.

PGS.TS Nghiêm Xuân Huy trao đổi tại hội nghị
Ông Huy chỉ ra sáu điểm yếu phổ biến của các trường Việt Nam, nổi bật là thiếu công nhận quốc tế, liên kết doanh nghiệp yếu và năng lực nghiên cứu hạn chế. Giải pháp là xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng vững mạnh, minh bạch dữ liệu và gắn kết phản hồi từ các bên liên quan. Ở tầm quốc gia, cần hoàn thiện thể chế, chính sách linh hoạt, tích hợp chỉ số xếp hạng vào tiêu chuẩn kiểm định và thúc đẩy tự chủ đại học. Ông khẳng định, xếp hạng không phải mục tiêu cuối cùng mà là kết quả tất yếu của hệ thống bảo đảm chất lượng hiệu quả.
PGS.TS Nguyễn Phương Nga – Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục (Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) – cho rằng muốn nâng cao chất lượng kiểm định cần có chính sách phù hợp và phát triển đội ngũ kiểm định viên. Cần tăng số lượng kiểm định viên đủ năng lực làm trưởng đoàn, bảo đảm mỗi nhóm ngành có ít nhất một kiểm định viên, đồng thời khuyến khích độ tuổi 45 – 50 tham gia để tận dụng kinh nghiệm.

Đại biểu trao đổi tại hội nghị
Các trường cần đầu tư đào tạo, hỗ trợ kiểm định viên học tiến sĩ, bồi dưỡng qua hội thảo, giao lưu, học tập kinh nghiệm. Bà Nga nhấn mạnh cần tăng cường phối hợp giữa người làm chính sách và kiểm định viên để cùng hoàn thiện hệ thống và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
“Hoàn thiện – Thực chất – Hội nhập quốc tế” là định hướng giai đoạn tới
Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho biết, trong 10 năm qua – đặc biệt 5 năm gần đây – công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng đã đạt nhiều kết quả tích cực. Hơn 90% cơ sở giáo dục đại học đã được kiểm định, trong khi hơn 40% chương trình đào tạo ở bậc đại học đã được đánh giá ngoài. Nhận thức của lãnh đạo các trường được nâng cao, đội ngũ bảo đảm chất lượng phát triển cả về số lượng và năng lực, đưa hệ thống tiến gần hơn chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, cũng còn những tồn tại như: một số trường triển khai bảo đảm chất lượng còn hình thức; kiểm định sau đại học còn hạn chế; đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo bài bản; cơ sở dữ liệu, hạ tầng còn yếu; mức độ hội nhập quốc tế thấp.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại hội nghị
Hướng tới giai đoạn 2026 – 2030, Thứ trưởng nhấn mạnh ba từ khóa: “Hoàn thiện – Thực chất – Hội nhập quốc tế”. Theo đó, hệ thống cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng chuẩn mực quốc tế; kiểm định phải thực chất, khách quan, không hình thức; đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế để xây dựng mô hình phù hợp với điều kiện Việt Nam.
“Bảo đảm và kiểm định chất lượng không chỉ là yêu cầu quản lí mà còn là nền tảng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – yếu tố quyết định để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia phát triển vào năm 2045”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thứ trưởng đề nghị các trường rà soát, hoàn thiện hệ thống bảo đảm chất lượng nội bộ, lan tỏa văn hóa chất lượng và liên tục cải tiến. Các trung tâm kiểm định phải giữ vai trò “người gác cổng” chất lượng, hoạt động độc lập, khách quan, minh bạch, chuyên nghiệp.
Về phía Bộ GDĐT, Bộ sẽ tiếp tục đóng vai trò hậu kiểm, triển khai Nghị quyết 71-NQ/TW, Nghị quyết 57-NQ/TW cùng các đề án, chiến lược và quy hoạch mạng lưới, hướng tới mục tiêu xây dựng hành lang pháp lí tiên tiến, phù hợp thực tiễn, thúc đẩy phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
Cục Quản lý chất lượng.