PGS.TS Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD&ĐT) thông tin về kết quả kiểm định chất lượng 122 cơ sở giáo dục đại học theo Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học (Thông tư 12) và và 899 chương trình đào tạo theo Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ban hành tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của Giáo dục đại học (Thông tư 04).
Từ đó cho thấy vấn đề đáng quan tâm về xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học Việt Nam để phát triển hệ thống này một cách trơn tru và chuyên nghiệp trong giai đoạn tiếp theo và đạt được mục tiêu lớn nhất là nâng cáo chất lượng giáo dục.
PGS.TS Huỳnh Văn Chương
- Ông thấy gì qua kết quả kiểm định chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học?
Trước khi nói về kết quả, tôi muốn lưu ý 2 vấn đề: (1) điểm số đánh giá các tiêu chuẩn, tiêu chí thống kê mới chỉ phản ánh hiện tượng nhưng chưa cho thấy được nguyên nhân, cần tìm hiểu và phân tích được nguyên nhân chúng ta mới có thể có được cách nhìn toàn diện; (2) cần xuất phát từ một số quy định liên quan tại Thông tư 12.
Cụ thể, theo Điều 46 của Thông tư 12, có 3 điều kiện công nhận cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Thứ nhất là đã có ít nhất một khóa người học tốt nghiệp; Thứ hai là đã được đánh giá ngoài và có văn bản đề nghị tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục xem xét công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; Thứ ba là cơ sở giáo dục có điểm trung bình của các tiêu chuẩn trong từng mục tại Chương II Thông tư 12 (Bảo đảm chất lượng về: Chiến lược; Hệ thống; Thực hiện chức năng; Kết quả hoạt động đầu ra) đều đạt từ mức 3,5/7 điểm trở lên và không tiêu chuẩn nào có điểm trung bình dưới 2,0 điểm.
Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cấp cơ sở giáo dục bao hàm tất cả các hoạt động của một cơ sở giáo dục đai học. Các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục được đánh giá theo 7 mức tương ứng với thang đo từ 1 đến 7 điểm (trong đó tiêu chí được đánh giá ở mức 4 là mức đạt khi đáp ứng đầy đủ yêu cầu: Thực hiện đầy đủ công tác đảm bảo chất lượng để đáp ứng yêu cầu của tiêu chí. Có các minh chứng chứng tỏ việc thực hiện được tiến hành đầy đủ. Việc thực hiện hoạt động đảm bảo chất lượng đem lại kết quả đúng như mong đợi).
Tính đến thời điểm hiện tại, có 183/241 cơ sở giáo dục đại học (không bao gồm 35 cơ sở giáo dục khối Công an, Quân đội và 13 trường CĐ sư phạm) đã thực hiện việc kiểm định, chiếm 76% tổng số cơ sở giáo dục đại học. Điều này có ý nghĩa lớn thể hiện kết quả và nỗ lực của các nhà trường trong việc bảo đảm chất lượng cơ sở giáo dục. Qua thống kê cho thấy trong các cơ sở đạt kiểm định theo quy định, có 47/122 cơ sở giáo dục (chiếm 38,5%) thuộc nhóm có từ 2-10 tiêu chí chưa đạt mức 4 còn lại đều đạt mức từ 4 điểm trở lên; có 75/122 cơ sở giáo dục đại học (chiếm 61,5%) có trên 10 tiêu chí chưa đạt mức 4 điểm. Cần nói rõ thêm mức 3,5 mới là mức khởi đầu để xem xét đạt trên thang điểm 7, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đã được kiểm định đạt nhưng ở giao động ở mức trên 3,5 – 4,0/7 là phần nhiều.
Qua thống kê kết quả đánh giá trung bình theo từng lĩnh vực đảm bảo chất lượng tại 122 cơ sở giáo dục đại học, chỉ có 01 lĩnh vực đạt điểm trung bình từ 4 (đảm bảo chất lượng về chiến lược), 3 lĩnh vực còn lại đều chỉ đạt trung bình tính theo tiêu từng chuẩn ở mức xấp xĩ 4 điểm. Tính trung bình theo từng tiêu chuẩn có 11 tiêu chuẩn có điểm đánh giá mức từ 4 trở lên. Tuy nhiên các tiêu chuẩn điểm đánh giá còn thấp tính trung bình là các tiêu chuẩn (TC) gồm: TC 3 (Lãnh đạo và quản lý); TC 4 (Quản trị chiến lược); TC 11 (Hệ thống thông tin bảo đảm chất lượng); TC 13 (Tuyển sinh và nhập học); TC 14 (Thiết kế và rà soát chương trình dạy học; TC 16 (Đánh giá người học); TC 19 (Quản lý tài sản trí tụe); TC 23 (Kết quả NCKH) chưa đạt yêu cầu tối thiểu (4 điểm).
- Vậy còn kết quả kiểm định của các chương trình đào tạo thì sao, thưa ông?
Điều kiện và quy trình để công nhận một chương trình đào tạo đạt yêu cầu được quy định tại Thông tư 04 và Thông tư 38/2013/TT-BGDĐT ban hành quy định về quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp (Thông tư 38). Cụ thể, khoản 2 Điều 4 Thông tư 04 quy định: Các tiêu chí được đánh giá từ mức 1 đến mức 3 là chưa đạt yêu cầu, từ mức 4 đến mức 7 là đạt yêu cầu; khoản 4 Điều 23 Thông tư 38 quy định: Chương trình đào tạo có ít nhất 80% số tiêu chí đạt yêu cầu, trong đó mỗi tiêu chuẩn có ít nhất 50% số tiêu chí đạt yêu cầu theo kết quả đánh giá chất lượng giáo dục của Hội đồng kiểm định chất lượng giáo dục.
Phân tích kết quả kiểm định chương trình đào tạo cho thấy: các tiêu chuẩn: TC 6 (Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên); TC 7 (Đội ngũ nhân viên); TC 8 (Người học và hoạt động hỗ trợ) đạt điểm trung bình theo tiêu chuẩn mức trên 4/7 điểm trở lên chiếm phần nhiều, riêng TC 4 (Phương pháp tiếp cận trong dạy và học); TC 9 (Cơ sở vật chất trang thiết bị); TC 11 (Kết quả đầu ra) có điểm tiệm cận mức 4 và cần phải có sự cải tiến mới đạt được mức 4. Nhóm tiêu chuẩn về phát triển chương trình đào tạo tính trung bình vẫn còn các tiêu chuẩn (TC 1; TC 2: TC 5) phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu ở mức tối thiểu (4 điểm). Tính trung bình theo tiêu chuẩn thì có 8/11 tiêu chí đạt mức dưới 4. Tiêu chí 2 của tiêu chuẩn 2 có 368/899 chương trình đào tạo được đánh giá chưa đạt yêu cầu của mức 4.
Ngoài ra còn có sự chênh lệch giữa kết quả giữa tự đánh giá của cơ sở giáo dục và đánh giá ngoài của đoàn đánh giá, cho thấy một trong số các nguyên nhân chính là do năng lực tự đánh giá của đội ngũ bảo đảm chất lượng của nhà trường theo chuẩn là chưa đồng đều.
- Ông có khuyến cáo gì đến các cơ sở giáo dục đại học từ những kết quả trên?
Nhìn chung kết quả cho thấy việc xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể theo quá trình, công tác tự đánh giá, đánh giá ngoài được quan tâm và bước đầu được triển khai đồng bộ tại các cở sở giáo dục. Nhiều có sở giáo dục đại học đã có sự đầu tư nguồn lực bao gồm nhân lực được đào tạo bồi dưỡng và nguồn lực tài chính để tạo nên sự bứt phá trong việc xây dựng và phát triển hệ thống BĐCL cấp cơ sở giáo dục bảo đảm triển khai các quy trình bảo đảm chất lượng theo chu trình P-D-C-A. Tuy nhiên, các Trường cần rà soát hệ thống ĐBCL bên trong; quản lý và sử dụng hiệu quả dữ liệu đánh giá để phục vụ ra các quyết định cải tiến chất lượng dựa trên sự phân tích, đối sánh; xây dựng văn hóa chất lượng, đảm bảo thực hiện các quy trình ĐBCL theo PDCA; rà soát và điều chỉnh chuẩn đầu ra của các CTĐT đáp ứng yêu cầu của Khung trình độ Quốc gia Việt Nam, Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT về chuẩn CTĐT và sắp đến là chuẩn cơ sở giáo dục đại học; Tạo ra một hệ sinh thái học tập và nghiên cứu hỗ trợ thúc đẩy sự hợp tác giữa các sinh viên, giảng viên và các đối tác.
Trong thời gian tới cần có chính sách để thúc đẩy cơ sở giáo dục đại học sớm hoàn thiện và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, như: Xây dựng khung bảo đảm chất lượng giáo dục; đánh giá tác động bảo đảm tính đồng bộ trong trong ma trận xây dựng chính sách; sửa đổi, bổ sung, thay thế Thông tư TT12, TT04 vàTT 38 liên quan đến quy trình, chu kỳ và bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
- Xin cảm ơn ông!
Theo Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 14/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030”, với mục tiêu chung là phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng Khung bảo đảm chất lượng ASEAN, góp phần quan trọng thúc đẩy tự chủ giáo dục đại học, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm; mục tiêu cụ thể giai đoạn 2022-2025 là hoàn thành hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong với mục tiêu, chính sách, nguồn lực, nhiệm vụ, kế hoạch, các quy trình bảo đảm chất lượng và hệ thống thông tin bảo đảm chất lượng được xác định rõ ràng phù hợp với sứ mạng, mục tiêu và điều kiện thực tế của cơ sở đào tạo trong từng giai đoạn trên cơ sở các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trong nước và nước ngoài. |
Cục Quản lý chất lượng
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn